Hiệu Hồng Sinh Đường. Không biết quê quán ở đâu. Năm 1858 soạn bộ Nam Thiên Dục Bảo Toàn Thư, gồm 5 quyển, ghi chép các bài thuốc gia truyền Nam và Bắc.

NGUYỄN QUÝ (Không rõ năm sinh năm mất)
Quê xã Xuân Dục, tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Nguyên là Giám sinh, được bổ làm tri huyện Tiên Minh, sau đó được thăng làm Tham Nghị xứ Yên Quảng, học được y thuật chính truyền, trị bệnh rất giỏi, xem mạch rất tinh tường. Tính tình vui vẻ, năm 70 tuổi vẫn khỏe mạnh. Về tai trị bệnh của ông, được Phạm Đình Hổ thuật lại trong ‘Vũ Trung Tùy Bút’ như sau: “Anh trai ta là Phạm Tôn Kiện, có vợ bị chứng sản hậu đau bụng có hòn cục, cụ Nguyễn Quý bảo sắc Toàn Đương quy 1 lạng, mai thêm 3 chỉ Nhục quế, uống vào khỏi bệnh ngay. Học trò hỏi cụ sao không lập thành bài? Cụ bảo rằng huyết gặp hàn thì ngưng lại, gặp nóng thì tan ra, chỉ cần 2 vị là khỏi, không cần lập thành bài. Anh thứ của tôi, vợ bị bệnh, uống lầm vị Đại hoàng, bụng phát trướng, khát, đại tiểu tiện đều bí, mời cụ Nguyễn Quý án mạch, cụ bảo không sao, chỉ cho uống Dương sâm 1 lạng, Ngưu tất 5 chỉ, Phụ tử 3 chỉ. Uống xong là tiêu ngay. Nho sinh Nguyễn Viện bị phù thũng đã phát mê sảng, cụ cho uống 1 thang Phụ Tử Lý Trung Thang, thêm Đại hoàng để cho hạ lợi cũng khỏi ngay. Cụ xem mạch cho giám sinh Nguyễn Thảng, biết rằng sang năm sẽ bị bệnh nặng, xem mạch cho anh thứ ba của tôi, biết rằng 3 năm nữa sẽ chết, sau đó quả nhiên đều đúng. Còn nhiều việc công hiệu nữa không kể hết được. Xem đó thì biết cụ Nguyễn Quý xem mạch rất tinh tường”.
Qua các câu chuyện trên cho thấy Nguyễn Quý trị bệnh có 3 đặc điểm:
1- Toa thuốc dùng ít vị.
2- Dùng Phụ tử để giải Đại hoàng hoặc dùng cả hai vị đó cùng lúc.
3- Đông y cho rằng Sâm có tác dụng bổ dưỡng, ông lại dùng không phải để bổ mà để lợi tiểu.
(Nguồn: st)
Trở vềHiệu Hồng Sinh Đường. Không biết quê quán ở đâu. Năm 1858 soạn bộ Nam Thiên Dục Bảo Toàn Thư, gồm 5 quyển, ghi chép các bài thuốc gia truyền Nam và Bắc.
Tự Hy Long, hiệu Thiện Đình. Người xã Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đậu tú tái 1846, 1848, cử nhân 1850, đạu tiến sĩ 1856, giữ chức tuần phủ Hải Dương, vì để mất thành nên bị cách chức. Sau đó được phục hồi hàm Quang lộc, tự Thiếu khanh, lĩnh chức Đốc học tỉnh Nam Định. Ông thích nghiên cứu thiên văn và y học, nhất là dược thảo. Năm 1901 ông soạn quyển Nam Phương Danh Vật Khảo.
Không rõ quê quán. Soạn bộ Y Học Tùng Thư (Hà Nội 1933-1939), Hải Thượng Lãn Ông Toàn Thư (Hà Nội 1942), Nhật Hoa Y Học (Hà Nội 1938), Sách Chữa Bệnh Sởi Và Bệnh Đậu (Hà Nội 1940), Sách Thuốc Gia Truyền Kinh Nghiệm (Hà Nội 1941), Giản Tiện Phương Kinh Nghiệm Cấp Cứu (Hà Nội 1941).
Hiệu Dưỡng Nguyên. Quê làng Cống Thủy, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Sách y học có: Khoa Chữa mắt (Hà Nội 1939), Sách Thuốc Việt Nam (Hà Nội (1932, 1934, 1935, 1936), Vấn Đề Nghiên Cứu Thuốc Ta (Hà Nội 1935), Khoa Chữa Phổi Và Bệnh Lao (Hà Nội 1940).
Tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am. Người xã Thanh Liêu, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Năm 1838 đậu tiến sĩ và được bổ nhiệm làm tri phủ, nhưng sau đó vì phạm lỗi nên bị cách chức. Năm 1843 được phục chức như cũ nhưng ông cáo bệnh không nhận. Ông tinh thông nho học và y học. Ông rất giỏi thơ Nôm, đọc sách chỉ xem qua một lần nà nhớ hết, viết văn không cần thảo trước.
Quê ở xã Hiệp Sơn, huyện Kinh Môn (nay thuộc xã Hiệp Sơn – An Lưu, huyện Kịn Môn tỉnh Hải Hưng). Giữ chức Tảnhị ở Thái y viện phụ trách coi Thái y viện. Dùng châm cứu chữa bệnh cho nhiều người, được Hồ Hán Thương rất yêu mến. Ông đã soạn quyển ‘Châm Cứu Tiệp Hiệu Diễn Ca’ bằng thơ Nôm để phổ biến rộng rãi phương pháp châm cứu. Đây là quyển sách châm cứu đầu tiên ở Việt Nam.
Copyright © 2009 Tinsuckhoe.com. All rights reserved
Thông tin trên tinsuckhoe.com chỉ có tính chất tham khảo. Không tự ý áp dụng khi chưa hỏi kiến bác sĩ.
Liên hệ: 098 300 6168 (Mr. Mạnh Toàn)